Miền núi – Thanhnienvietnam.net https://thanhnienvietnam.net Trang tin tức giới trẻ thanh niên Việt Nam Fri, 03 Oct 2025 02:39:24 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/thanhnienvietnam/2025/08/thanhnhienvietnam.svg Miền núi – Thanhnienvietnam.net https://thanhnienvietnam.net 32 32 Thanh Hoá tìm lối thoát cho vùng đất khó khăn biên giới Mường Lát https://thanhnienvietnam.net/thanh-hoa-tim-loi-thoat-cho-vung-dat-kho-khan-bien-gioi-muong-lat/ Fri, 03 Oct 2025 02:39:17 +0000 https://thanhnienvietnam.net/thanh-hoa-tim-loi-thoat-cho-vung-dat-kho-khan-bien-gioi-muong-lat/

Ở tỉnh Thanh Hoá, chính sách điều động cán bộ từ vùng xuôi lên vùng núi đang được triển khai để giải quyết tình trạng thừa cán bộ và khai thác tiềm năng của các khu vực khó khăn, giúp người dân thoát nghèo. Huyện biên giới Mường Lát, một trong những địa phương nghèo nhất cả nước, đang là điểm đến của nhiều cán bộ trẻ.


Sản xuất manh mún, nhỏ lẻ
Sản xuất manh mún, nhỏ lẻ

Huyện Mường Lát có 8 đơn vị xã, nơi sinh sống của khoảng 41.000 nhân khẩu thuộc các dân tộc Thái, Mông, Dao, Khơ Mú, Mường, Kinh. Mặc dù đã có nhiều chính sách hỗ trợ, khu vực này vẫn còn nhiều khó khăn, đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất và sinh kế. Theo điều tra xã hội học mới nhất, hơn 65% hộ dân tại Mường Lát là hộ nghèo hoặc cận nghèo.


Đời sống người dân còn nhiều khó khăn
Đời sống người dân còn nhiều khó khăn

Các hộ dân ở Mường Lát phụ thuộc vào nông nghiệp nhỏ lẻ và chăn nuôi, nhưng thường gặp khó khăn do thời tiết và dịch bệnh. Một vấn đề đáng lo ngại khác là nhiều hộ dân không dám vay vốn để phát triển kinh tế do sợ không có thu nhập để chi trả. Để giải quyết vấn đề này, Viện Nông nghiệp Thanh Hóa đã được giao nhiệm vụ khảo sát và đánh giá thổ nhưỡng, khí hậu của Mường Lát để tìm ra loại cây, con phù hợp với điều kiện địa phương.


Thiếu sinh kế người dân loay hoay tìm cách thoát nghèo
Thiếu sinh kế người dân loay hoay tìm cách thoát nghèo

Dự án trồng xoan, lát đã được triển khai từ năm 2011 nhưng không thành công do không phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng. Hiện tại, một số người dân đã bắt đầu thử nghiệm trồng cây quế để lấy tinh dầu, và chính quyền địa phương đang chỉ đạo kiểm lâm kiểm tra chất lượng tinh dầu. Ngoài ra, mô hình trồng cỏ chăn nuôi gia súc cũng đã được triển khai và mang lại giá trị kinh tế cho các hộ gia đình.

Tín hiệu vui từ chính sách luân chuyển, điều động cán bộ gần dân, sát dân
Tín hiệu vui từ chính sách luân chuyển, điều động cán bộ gần dân, sát dân

Để hỗ trợ cán bộ vùng xuôi lên núi công tác, tỉnh Thanh Hóa đã ban hành nhiều chính sách và cơ chế hỗ trợ kịp thời. Mức hỗ trợ là 1,75 lần mức lương cơ sở mỗi người mỗi tháng đối với các trường hợp làm việc tại 38 xã thuộc các huyện vùng cao.

Ngày 31/7, Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa đã ký quyết định điều động 176 công chức từ các xã, phường có số lượng dôi dư đến nhận nhiệm vụ tại các xã vùng cao, miền núi đang thiếu nhân lực theo quy định. Thời gian điều động bắt đầu từ ngày 1/8/2025 và kéo dài trong 3 năm.

Sau thời hạn trên, công chức sẽ được xem xét bố trí trở lại nơi công tác cũ, trừ khi có nguyện vọng tiếp tục làm việc tại địa bàn mới, hoặc được phân công nhiệm vụ khác phù hợp. Trong thời gian công tác, họ sẽ được hưởng đầy đủ chế độ, chính sách hỗ trợ theo quy định.

]]>
Hội Phụ nữ tỉnh giúp phụ nữ vùng núi thoát nghèo nhờ vốn vay ưu đãi https://thanhnienvietnam.net/hoi-phu-nu-tinh-giup-phu-nu-vung-nui-thoat-ngheo-nho-von-vay-uu-dai/ Wed, 24 Sep 2025 09:13:00 +0000 https://thanhnienvietnam.net/hoi-phu-nu-tinh-giup-phu-nu-vung-nui-thoat-ngheo-nho-von-vay-uu-dai/

Công khai, minh bạch trong vay và cho vay vốn ưu đãi chính sách do hội phụ nữ các cấp trong tỉnh thực hiện đã trở thành cầu nối giúp hàng nghìn hội viên phụ nữ tiếp cận nguồn lực tài chính kịp thời. Việc này không chỉ giúp phụ nữ vùng nông thôn, miền núi tự tin khởi sự kinh doanh, xây dựng các mô hình kinh tế hiệu quả, mà còn tạo những điểm sáng trong công cuộc giảm nghèo bền vững.

Bà Trần Thị Vân (xã Thống Nhất) giới thiệu mô hình kinh tế vườn tổng hợp của gia đình.
Bà Trần Thị Vân (xã Thống Nhất) giới thiệu mô hình kinh tế vườn tổng hợp của gia đình.

Các cấp hội phụ nữ tỉnh đã phát huy vai trò đồng hành, hỗ trợ hội viên trong tiếp cận nguồn vốn ưu đãi từ Ngân hàng Chính sách Xã hội thông qua các tổ tiết kiệm và vay vốn. Quá trình vay và cho vay luôn được thực hiện minh bạch, công khai, đúng đối tượng, đúng quy trình. Hội viên được hướng dẫn lập hồ sơ vay vốn bài bản, tư vấn cách sử dụng vốn hiệu quả và cam kết trả nợ đúng hạn.

Một điển hình trong việc sử dụng hiệu quả nguồn vốn ưu đãi là bà Đỗ Thị Lợi (thôn Chợ, xã Thống Nhất). Từ 3 cặp bò mẹ con ban đầu, sau 5 năm, nhờ sự kiên trì học hỏi kỹ thuật và sử dụng hiệu quả nguồn vốn hỗ trợ, đàn bò của gia đình đã phát triển lên 50 con, cho thu nhập trên 200 triệu đồng/năm. Cuộc sống gia đình dần ổn định, khang trang, con cái học hành đầy đủ.

Bên cạnh đó, nhiều hội viên đã chuyển hướng sang kinh tế vườn tổng hợp. Bà Trần Thị Vân (xã Thống Nhất), với 3ha đất vườn đồi đã đầu tư trồng cây thanh long ruột đỏ, na, vải, ổi… cho thu nhập 150-200 triệu đồng mỗi năm. Nhờ nguồn vốn ưu đãi được tiếp cận minh bạch và sự hướng dẫn kỹ thuật từ hội phụ nữ, mô hình của bà không chỉ thành công, mà còn trở thành địa chỉ học tập cho nhiều chị em khác.

Để tạo điều kiện vay vốn làm ăn cho hội viên, Hội thường xuyên phổ biến các chính sách cho vay, công khai, minh bạch trong việc lựa chọn đối tượng được vay và giám sát chặt chẽ hoạt động của các tổ vay vốn.

Sự phát triển của các mô hình kinh tế do phụ nữ làm chủ không chỉ thể hiện sự minh bạch trong cho vay vốn đúng người, đúng việc, mà còn cho thấy sự ứng dụng công nghệ trong quản lý và sản xuất. Mô hình trang trại trứng gà Tân An của chị Phạm Thị Nguyệt Dung (phường Quảng Yên) là một ví dụ. Nhờ số hóa quy trình từ chăn nuôi đến bán hàng, mỗi ngày trang trại cung cấp khoảng 5 vạn trứng ra thị trường, doanh thu đạt 60 tỷ đồng/năm, tạo việc làm cho hàng chục lao động.

Toàn tỉnh hiện có hàng trăm mô hình tổ tiết kiệm và vay vốn do phụ nữ quản lý. Nhờ hoạt động công khai, dân chủ, minh bạch, các mô hình này không chỉ giúp hội viên phát triển kinh tế, mà còn củng cố niềm tin vào tổ chức Hội. Những người phụ nữ từng e ngại tiếp cận tài chính, nay đã trở thành trụ cột kinh tế, chủ động trong sản xuất, kinh doanh và lan tỏa tinh thần khởi nghiệp đến cộng đồng.

Trong thời gian tới, các cấp hội phụ nữ tỉnh tiếp tục phát huy vai trò cầu nối chính sách, đảm bảo công khai, minh bạch trong quản lý vốn, đồng thời khuyến khích các mô hình phụ nữ làm chủ kinh tế tiếp cận công nghệ, góp phần xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, văn minh.

]]>
Thái Nguyên: Phát triển kinh tế – xã hội vùng dân tộc thiểu số bền vững https://thanhnienvietnam.net/thai-nguyen-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-vung-dan-toc-thieu-so-ben-vung/ Thu, 28 Aug 2025 04:20:44 +0000 https://thanhnienvietnam.net/thai-nguyen-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-vung-dan-toc-thieu-so-ben-vung/

Trong những năm qua, tỉnh Thái Nguyên đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Với nhiều giải pháp đồng bộ và hiệu quả, tỉnh đã cải thiện đáng kể hạ tầng kỹ thuật, văn hóa – xã hội thiết yếu như điện, đường, trường học, trạm y tế, nhà văn hóa tại các bản làng.

Truyền dạy đàn tính hát then cho lớp trẻ.
Truyền dạy đàn tính hát then cho lớp trẻ.

Những nỗ lực này không chỉ nâng cao mức sống của người dân mà còn làm thay đổi căn bản tập quán canh tác và bộ mặt bản làng. Các bản làng dân tộc thiểu số tại Thái Nguyên nay đã có những gam màu tươi sáng với những ngôi nhà mới xây dựng, đường sá được mở rộng và trải bê tông, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu và phát triển kinh tế.

Bản Tèn xã Văn Lăng hứa hẹn là một điểm đến mới.
Bản Tèn xã Văn Lăng hứa hẹn là một điểm đến mới.

Việc đầu tư có trọng tâm trọng điểm, phù hợp với điều kiện, tiềm năng thế mạnh, phong tục tập quán của đồng bào đã thu được kết quả tích cực. Công tác vận động quần chúng phát huy quyền làm chủ, sự tham gia chủ động của cộng đồng và người dân đã khơi dậy tinh thần nỗ lực vươn lên của đồng bào. Nhờ đó, tỷ lệ hộ nghèo giảm sâu, khoảng cách về mức sống so với bình quân chung của tỉnh từng bước thu hẹp.

Bản Tày xã Đồng Phúc dưới nắng ban mai.
Bản Tày xã Đồng Phúc dưới nắng ban mai.

Sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa của các vùng dân tộc có bước phát triển mới. Tỉnh Thái Nguyên cũng đẩy mạnh việc trang bị kiến thức về khoa học kỹ thuật, hỗ trợ vật tư phân bón, nguồn cây, con giống chuyển đổi cây trồng vật nuôi, phát triển ngành nghề, làng nghề truyền thống. Hệ thống hạ tầng viễn thông được xây dựng tạo điều kiện cho bà con tiếp cận các nền tảng công nghệ số.

Một số sản phẩm nông nghiệp của tỉnh đã có giá trị thương phẩm cao, trong đó chè là cây trồng chủ lực. Nhiều địa phương đã tập trung phát triển và đã cho sản lượng, giá trị thương phẩm cao với các loại cây trồng như na, bưởi, quế… Sản phẩm truyền thống như dệt, may trang phục dân tộc, mật ong, gạo nếp vải, cốm, miến dong, rượu men lá… đã đáp ứng yêu cầu về chất lượng, thị hiếu người tiêu dùng và đã đạt tiêu chuẩn OCOP.

Bên cạnh những thành tựu, vẫn còn một số khó khăn và thách thức mà tỉnh cần phải vượt qua. Các vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi địa hình trải rộng, mật độ dân cư không tập trung, trình độ sản xuất còn dựa nhiều vào yếu tố tự nhiên, phương thức canh tác giản đơn, giá trị kinh tế thấp, ít cơ hội tiếp cận việc làm phi nông nghiệp.

Cơ sở hạ tầng nhiều xã phía Bắc của tỉnh chưa được đầu tư hoàn thiện. Cơ chế, chính sách chưa đủ hấp dẫn thu hút doanh nghiệp có tiềm lực kinh tế mạnh đầu tư vào công nghiệp chế biến, liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị tại các xã vùng sâu, vùng xa.

Thế nhưng, bản sắc văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số tại Thái Nguyên vẫn được giữ gìn và phát huy. Những nét đẹp mang giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào như ngôn ngữ, trang phục truyền thống, phong tục tập quán, nghi lễ tín ngưỡng, ẩm thực, dân ca dân vũ được các cấp ủy, chính quyền tạo điều kiện cho bà con bảo tồn và phát huy.

Mới đây, tỉnh Thái Nguyên đã ban hành đề án phát triển du lịch cộng đồng với nhiều triển vọng về các điểm đến mới và tạo thêm việc làm cho người dân. Làng du lịch sinh thái nhà sàn Thái Hải, Làng du lịch cộng đồng xóm Mỏ Gà, Làng văn hóa dân tộc bản Quyên… có thể coi là hình mẫu để nâng cao, nhân rộng.

Trong thời gian tới, tỉnh cần tiếp tục quan tâm và có những giải pháp hiệu quả hơn nữa để phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi một cách bền vững.

]]>
Đầu tư vào vùng dân tộc thiểu số: Kích cầu phát triển toàn xã hội https://thanhnienvietnam.net/dau-tu-vao-vung-dan-toc-thieu-so-kich-cau-phat-trien-toan-xa-hoi/ Sun, 27 Jul 2025 15:52:32 +0000 https://thanhnienvietnam.net/dau-tu-vao-vung-dan-toc-thieu-so-kich-cau-phat-trien-toan-xa-hoi/

Trong những năm gần đây, các xã vùng sâu, vùng xa đã chứng kiến sự thay đổi tích cực trong cơ sở hạ tầng, với hệ thống điện, đường, trường, trạm được xây dựng và nâng cấp đồng bộ. Những con đường đất đã được bê-tông hóa, nhựa hóa, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại và giao thương của nhân dân. Trường học và trạm y tế cũng được xây dựng khang trang, cung cấp môi trường học tập đầy đủ cho con em đồng bào và chăm sóc sức khỏe tốt hơn cho người dân.

Việc đầu tư vào vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi không chỉ giúp kích cầu phát triển toàn xã hội mà còn giảm bớt khoảng cách giữa các hộ gia đình giàu và nghèo. Tuy nhiên, để đạt được hiệu quả lâu dài, cần có sự đầu tư chung cho toàn vùng và đầu tư riêng cho từng đối tượng. Ông Điểu Điều, Trưởng ban Dân tộc Hội đồng nhân dân tỉnh Đồng Nai, cho rằng cần có sự đầu tư cho từng hộ gia đình để những hộ nghèo, cận nghèo có động lực vươn lên.

Ông Điểu Điều cũng nhấn mạnh rằng trước mắt, cần đầu tư con giống, nông cụ cho đồng bào. Về lâu dài, cần đầu tư nghề, đầu tư thay đổi tư duy, ý thức cho đồng bào để họ tự vươn lên. Cách xóa nghèo hiện nay, chỉ đơn giản là ‘dân nghèo cái gì thì cho cái đó’, không phải là giải pháp bền vững. Lâm Nhanh, một cán bộ đoàn của xã Lộc Hưng, tỉnh Đồng Nai, đã tiên phong trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng để nâng cao giá trị và mở ra hướng đi mới cho địa phương.

Nhờ được Quỹ hỗ trợ nông dân hỗ trợ thêm 50 triệu đồng, anh Lâm Nhanh đã chủ động chuyển đổi vùng đất trồng lúa kém hiệu quả sang trồng dưa lưới. Hiện nay, anh đã hỗ trợ thêm 10 hộ dân khác trồng dưa lưới trên diện tích 10 ha. Mô hình này không chỉ giúp tăng thu nhập cho gia đình anh mà còn mở ra hướng đi mới cho các hộ dân khác trong xã.

Tại các xã biên giới như Tân Tiến, Thiện Hưng, Hưng Phước, trước đây hạ tầng y tế thiếu và yếu, nhưng nhờ được đầu tư các nguồn lực, trong đó có nguồn vốn của Chương trình phát triển vùng dân tộc thiểu số và miền núi, đã tạo nên một hệ thống chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân ngày càng hiệu quả và chất lượng. Trạm y tế của xã Hưng Phước đã có đủ hạ tầng kỹ thuật và khối phụ trợ, cũng như đủ thuốc trong danh mục thuốc chữa bệnh chủ yếu sử dụng tại trạm y tế xã theo quy định hiện hành.

Khi hệ thống y tế được đầu tư đồng bộ, người dân vùng sâu, vùng xa có điều kiện tiếp cận các dịch vụ khám, chữa bệnh kịp thời, giảm bớt bệnh tật và nâng cao thể trạng và chất lượng cuộc sống. Qua đó, thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với vùng sâu, vùng xa, góp phần củng cố niềm tin của đồng bào đối với chính quyền.

Thông qua tín dụng ưu đãi, người dân có điều kiện đầu tư vào sản xuất, chăn nuôi, phát triển kinh tế hộ gia đình bền vững, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần. Chị Thị Geo, ở xã Đắk Nhau, năm 2022 được vay 50 triệu đồng từ nguồn vốn chính sách, đã mua một cặp bò giống và làm chuồng trại. Đến nay, đàn bò của chị đã phát triển lên năm con, tạo nguồn thu nhập ổn định và giúp gia đình chị chính thức thoát nghèo.

Những nguồn vốn chính sách của trung ương và địa phương như những cơn ‘mưa dầm’ thấm sâu vào đời sống đồng bào vùng sâu, vùng xa, từng bước thay đổi cuộc sống của người dân. Đây là minh chứng cho sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, cũng như nỗ lực của chính quyền trong việc giảm nghèo và cải thiện đời sống cho người dân.

]]>